Nhắc đến thơ Đường, ta thường nói đến bút pháp chấm phá – một trong những nét độc đáo tạo nên ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Bút pháp chấm phá phác họa hay còn gọi là vẽ mây nảy trăng. Đây là một trong những bút pháp nghệ thuật được Bác vận dụng nhiều trong thơ. Chỉ với vài nét vẽ, Hồ Chí Minh đã để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc. Nhật kí trong tù là một tập thơ được Bác vận dụng rất thành công bút pháp nghệ thuật này. Và tinh thần lạc quan là một trong những nội dung tiêu biểu của tập thơ mà khi nhắc đến Nhật kí trong tù thì bất kì ai cũng đều trân trọng và tự hào về những phẩm chất cao quý, trong sáng, về tinh thần lạc quan yêu đời của Bác.
Mộ (Chiều tối) – Một trong những bài thơ sáng tác trong tù
Trong tập thơ Nhật kí trong tù, Bác đã vận dụng rất thành công bút pháp chấm phá phách ọa trong nhiều bài thơ. Có thể kể đến đầu tiên là bài thơ Mộ (Chiều tối), một trong những bài thơ được Bác sáng tác nhằm ghi lại khung cảnh chuyển lao. Trên quãng đường chuyển lao khổ ải từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo (Quảng Tây, Trung Quốc), Bác đã viết liền năm bài thơ, và Mộ là bài thơ thứ ba:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây lơ lửng giữa tầng không
Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng”
Bài thơ được mở đầu bằng hai hình ảnh mang đậm nét cốt cách Đường thi với những nét chấm phá cổ điển: một cánh chim chiều, một chòm mây lẻ loi (cô) chầm chậm (mạn mạn) lướt trên nền trời. Chỉ vài nét phác họa, hai câu thơ đã vẽ nên một bức tranh nên thơ, yên bình của cuộc sống: chim bay về rừng tìm chốn trú ngụ, đám mây lẻ loi trôi lừng lờ trên bầu trời chiều…chỉ vài nét chấm phá, nhưng bức họa phong cảnh đã hiện ra rõ.
Ở hai câu thơ này, còn được mở đầu bằng phong vị quen thuộc của thơ xưa. Trong những câu thơ trên cánh chim thường gợi cho ta liên tưởng đến những vần thơ đẹp. Còn hình ảnh cánh chim trong thơ Hồ Chí Minh là cánh chim “mỏi” đang tìm về với sự sống thường ngày. Và cũng vì thế mà cánh chim ở đây có “hồn” và mang đầy tâm trạng của nhân vật trữ tình. Ở đây có sự tương đồng, giao hòa giữa con người và thiên nhiên: cánh chim mỏi mệt kiếm ăn trong suốt ngày dài và người ảnh chòm mây. Nhưng nếu hiểu đúng nghĩa của phần phiên âm phải là: “Chòm mây lẻ loi lững lờ trôi qua lưng trời”. Còn phần dịch thơ chỉ là chòm mây trôi nhẹ nếu dịch như vậy đã đánh mất chữ “cô” (lẻ loi) trong “cô vân” và nhịp bay rất chậm của chòm mây “mạn mạn”. Các từ “quyện”, “cô”, “mạn mạn” trong hai câu thơ có sức gợi tả và biểu cảm đặc sắc về cảnh vật thoáng một vẻ buồn, mỏi mệt và cô đơn.
Với chòm mây ấy, không gian trở nên mênh mông, vô tận hơn còn thời gian dường như đã ngừng trôi. Người ngắm nó phải có một phong thái ung dung, tinh thần luôn tự do thì mới có được những cảm nhận tinh tế như vậy. Chỉ vài nét chấm phá đơn sơ, nhưng câu thơ lại mở ra không gian bát ngát, cao rộng, trong trẻo, êm ả và thanh bình. Nhà thơ đã vận dụng một cách tự nhiên và khéo léo một nét khá quen thuộc trong thi pháp cổ điển để ít mà gợi nhiều, dùng điểm vẽ diện, lấy động tả tĩnh, lấy cái cực nhỏ để diễn tả cái bát ngát, mênh mông…Chỉ một cánh chim bay về rừng mà đã diễn tả và gợi ra một không gian êm đềm, tĩnh lặng… “Chỉ một chòm mây đang lướt nhẹ giữa nền trời” mà gợi ra cả một bầu trời bát ngát, xanh trong, thi vị…Những hình ảnh quen thuộc và cổ kính, giàu sức khơi gợi giúp ta hình dung thật rõ nét cảnh chiều miền sơn dã. Câu thơ ấy làm cho ta gợi nhớ cánh chim trong thơ Nguyễn Du (chim hôm thoi thót về rừng), và một tầng mây trong thơ Nguyễn Khuyến (tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt) và xa hơn gợi nhớ những câu thơ quen thuộc của Lí Bạch (chúng điểu cao phi tận – cô vân độc khứ nhàn) hay Thôi Hiệu (bạch vân thiên tải không du du).”
Qua những vần thơ cổ điển trên, ta bỗng nhận ra một nét chung trong tâm hồn và cốt cách của các bậc thi sĩ đó là phong thái ung dung, thanh cao như muốn vượt lên trên tất cả. Đó là sự giao cảm của con người với thiên nhiên, với tạo vật, cái tôi trữ tình đã hòa lần vào thiên nhiên, ngoại cảnh. Một cánh chim cuối ngày mỏi mệt đang bay về rừng, một chòm mây lẻ loi, chầm chậm trôi gợi lên bầu trời trong ngắt, tĩnh lặng. Đọc hai câu thơ ấy ta vẫn cảm nhận được một buổi chiều tối tràn ngập trong không gian. Đó chính là những nét họa vừa cổ điển vừa gần gũi, giàu sức gợi ấy đã giúp chúng ta hình dung rõ cảnh chiều tối miền rừng núi và cách cảm nhận độc đáo của Bác.
Sau hai nét vẽ về thiên nhiên, nhà thơ chuyển sang miêu tả bức tranh xóm núi. Một cảnh bình dị trong lao động của cuộc sống đời thường: “Từ hình ảnh, ngôn từ, đến âm điệu thơ đều chứng tỏ vẻ đẹp khác thường của cảnh và người. Cho ta vẻ đẹp một tâm hồn thiết tha gắn bó với sự sống, với con người lao động, một tấm lòng trìu mến và đang thầm khát khao hạnh phúc bình dị, ấm cúng của tình cảm gia đình, vẻ đẹp một tinh thần tự quên mình đến triệt để. Lúc này người tù Hồ Chí Minh không tự ngẫm, tự than về cảnh ngộ bản thân mà “hướng ngoại” đến cùng.”
Ở Bác cảm quan thiên nhiên thường gắn liền với cảm quan lao động. Bác thường tìm đến vẻ đẹp của thiên nhiên trong mối quan hệ với sinh hoạt đời thường của nhân dân lao động. “Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc, Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng” – Thiếu nữ xóm núi đang xay ngô. Ngô xay xong thì lò than đã rực hồng. Hai câu thơ này miêu tả hình ảnh người đi đày – người đi xa đang cất bước trên con đường xa xôi “chinh đồ thượng”. Và lúc này, Bác đã trải qua những ngày dài bị đày ải, áo quần rách tả tơi. Thân hình tiều tụy, đôi chân mang nặng xiềng xích, lê bước trước mũi súng của bọn lình áp giải. Từng trận gió phương Bắc lạnh lẽo thổi tới tấp vào mặt Bác. Hai câu thơ này miêu tả tư thế hiên ngang, bất khuất của Bác trên bước đường đày ải. Và cụm từ “trận trận hàn” đó là hình ảnh của nhiều, rất nhiều cơn gió cứ thổi tới tấp, nhiều đợt gió cứ chồng chất và nối tiếp nhau thổi mạnh và trực tiếp vào Bác. Bốn tiếng ấy hòa nhịp với nhau tạo nên âm hưởng hào hùng.
Nếu ở phần thứ nhất là cảnh đêm tối, gió lạnh, đường xa thì đến phần thứ hai của bài thơ đó là cảnh bình minh ửng hồng, thời tiết ấm áp. Đó là khung cảnh của “bạch sắc” chuyển nhanh sang màu hồng “dĩ thành hồng”. Cảnh bình minh hiện ra thật tráng lệ và đầy sức sống. Ánh sáng đã chuyển hóa từ gam màu lạnh chuyển dần sang màu nóng gợi lên khung cảnh vui tươi đầy sức sống, màu tương phản đối lập giữa “hồng” và “u ám”. Một đêm thu lạnh lẽo đã trôi qua. Trong phần thứ nhất, Bác hiện lên trong tư thế một “chinh nhân” đang vượt qua khó khăn, gian khổ trên con đường cách mạng “Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng”, thì ở cảnh thứ hai, Người lại trở thành một “hành nhân” mà tứ thơ thì lai láng, tràn đầy trong cảnh bình minh ấm áp “Hành nhân thi hứng hốt gia nồng”. Hai câu thơ này toát lên một phong thái, một cốt cách cao đẹp, một tâm hồn lạc quan, yêu đời, yêu cuộc sống.
Cảnh sắc thiên nhiên và nhân vật trữ tình trong bài thơ đã chuyển từ bóng tối ra ánh sáng, từ buồn sang vui, từ “Gà gáy một lần đêm chửa tan” đến “Phương đông màu trắng chuyển sang hồng – Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không”. Từ cảnh gió rét đường xa, hướng đi lên, hướng về sự sống, về sự lạc quan, ánh sáng và tương lai.
Bài thơ Mộ (Chiều tối) chỉ với vài nét chấm phá về trăng sao, về khung cảnh rạng đông, bình minh đã tô đậm được một phong thái, tâm hồn vĩ đại của con người. Bài thơ này là một trong những tác phẩm nổi bật trong tập thơ Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh. Chất thơ vừa tự nhiên vừa sâu sắc, chất trẻ trung, hiện đại kết hợp hài hòa với màu sắc cổ điển. Hồn thơ bay bổng, vượt lên trên khổ ải, dạt dào cảm xúc trước vẻ đẹp của thiên nhiên, tha thiết trân trọng và yêu quý cuộc sống đời thường của người lao động. Dù Bác đang bị đày đọa trong cảnh chuyển lao khổ cực nhưng cả bài thơ ta chỉ thấy niềm vui, sự giao hòa với thiên nhiên và sâu xa hơn đó là một niềm lạc quan, tin tưởng vào tương lai.
Bài thơ Mộ (Chiều tối) chỉ với bốn nét vẽ: cánh chim chiều, chòm mây lẻ loi trôi chầm chậm, thiếu nữ và lò than đỏ rực hồng nhưng đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Nguồn: https://tenrenvietnam.com
Danh mục: Tài liệu chia sẻ