Truyện Kiều, một tác phẩm văn học vượt thời gian, tỏa sáng tinh hoa ngôn ngữ Việt, đây chính là kiệt tác của cụ Nguyễn Du trong kho tàng thơ văn, ca dao thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhất trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII.
Truyện Kiều đã ảnh hưởng sâu sắc và trở thành một phần tinh thần quan trọng trong văn hóa, văn học nghệ thuật dân tộc suốt hàng trăm năm qua.
Dù Truyện Kiều đã được nghiên cứu tỉ mỉ, viết rất nhiều bài và có sự tham gia của các giáo sư, nhà thơ, nhà văn đương đại, lại vẫn còn nhiều tranh cãi xoay quanh từng câu, từng từ, và từng ý nghĩa của Nguyễn Du.
Với mong muốn khám phá sâu hơn về Tuyệt phẩm này, một tổ chức xã hội đã được thành lập – Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh Bắc Ninh.
Gần đây, tôi đã có dịp tham gia buổi trò chuyện với ông Nguyễn Khắc Bảo, Phó Chủ tịch Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh Bắc Ninh. Ông đã chia sẻ rằng ông đã sưu tập được 142 bản Truyện Kiều, trong đó có 2 bản chữ Hán, 68 bản chữ Nôm và 72 bản chữ Quốc ngữ. Ngay từ năm 1866, đã có bản Truyện Kiều cổ nhất và mới nhất được xuất bản vào năm 2022.
Trong Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh Bắc Ninh, một vấn đề đang ngày càng được tranh luận sôi nổi là về câu thứ 20 trong Truyện Kiều: “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”.
Theo ông Bảo, trong 142 bản Truyện Kiều ông đã sưu tập, đa số đều ghi là “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang”. Tuy nhiên, cũng có một số bản chỉ sử dụng từ “nét người” thay vì “nét ngài”.
Bài viết này sẽ trình bày suy nghĩ của một nhà thơ, một thành viên sáng lập Hội Văn Học Nghệ Thuật Tỉnh Bắc Ninh về ý nghĩa câu này.
Về ý thứ nhất, “Khuôn trăng đầy đặn” có thể hiểu là “Khuôn đẹp”. “Khuôn trăng” có hình dạng tròn và chứa đựng những hình ảnh đẹp như chị Hằng, Ả Hằng, Hằng Nga hay Thỏ Ngọc. Điều này thể hiện quan niệm dân gian rằng trăng tròn chỉ xuất hiện vào ngày 15-16 âm lịch. “Khuôn tròn” không bị méo mó và biến dạng. Ý thơ của Nguyễn Du sử dụng từ “khuôn” để miêu tả cái thực và từ “trăng” để miêu tả cái ảo. “Khuôn trăng” là sự kết hợp giữa cái thực và cái ảo, hữu hình và vô hình. Điều này cũng phù hợp với quan niệm truyền thống rằng con gái tuổi 15-16 là tuổi “cập kê”, thời điểm mà họ trang điểm đẹp bằng cách búi tóc hay cài trâm, và cũng là thời điểm họ chuẩn bị lấy chồng.
Ý thứ hai, “Nét ngài nở nang”, từ “nét” có thể hiểu là ánh nhìn thoáng qua khi cảm nhận một cái gì đó. “Nét” có thể là “nét bút”, “nét sông” là hình ảnh thực, còn “nét nguyệt”, “nét xuân sơn”, “nét thu”, “nét liễu”, “nét buồn” là hình ảnh ảo. Nguyễn Du đã sử dụng từ “nét” để kết hợp giữa thực và ảo. “Nét ngài” là ảo, còn “ngài” là thực. Cả hai từ “nở nang” thể hiện sự kết hợp giữa thực và ảo.
Nếu nhìn một cách chi tiết, “nét ngài” có thể hiểu là những sợi lông râu của con bướm tằm sau khi nó đã chuyển hóa từ sâu thành bướm. Con bướm cái có đôi cánh bay, và ở đầu bướm đã có hai sợi lông râu dài, cong như lá liễu. Chữ “nga” trong chữ Nôm có nghĩa là “con ngài”. Có thể dùng từ “nga” để thay thế cho cả từ “nga my”.
Theo “Điển cố văn học”, “nga my” có nghĩa là mày ngài. Hai sợi lông râu cong của con bướm cái được sử dụng để so sánh với lông mày của người phụ nữ xinh đẹp.
“Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” đã tạo nên một bức tranh đẹp, lôi cuốn ngay từ cái nhìn đầu tiên. Nguyễn Du đã khéo léo kết hợp giữa thực và ảo, từ đó tạo ra một không gian đa chiều và đa cảm trong thơ của mình.
Trong không gian đa chiều, đa cảm đó, mỗi người đọc sẽ cảm nhận và hiểu được những ý nghĩa khác nhau, những hình ảnh khác nhau khi đọc câu 20 “Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang” trong Truyện Kiều./.
Nguồn: https://tenrenvietnam.com
Danh mục: Tài liệu chia sẻ